Tin tức & Sự kiện
Trang chủ   >   >    >  
QUAN ĐIỂM, MỤC TIÊU CỦA ĐẢNG VỀ XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ NỮ TRÍ THỨC TRONG THỜI KỲ ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA - HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC
TS. Nguyễn Bắc Son, Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương

1. Mở đầu

"Hiền tài là nguyên khí quốc gia, nguyên khí thịnh thì đất nước mạnh và càng lớn lao, nguyên khí suy thì thế nước yếu mà càng xuống thấp. Bởi vậy các bậc vua tài giỏi đời xưa, chẳng có đời nào lại không chăm lo nuôi dưỡng và đào tạo nhân tài bồi đắp thêm nguyên khí". Đó là câu nói nổi tiếng cách đây 526 năm (1484- 2010) của vị Tiến sĩ triều Lê, Phụng trực đại phu, Hàn lâm viện thừa chỉ, Đông các đại học sĩ Thân Nhân Trung vâng mệnh vua Lê Thánh Tông soạn bài ký cho tấm bia Văn Miếu tại Quốc Tử giám đã khẳng định vai trò của nhân tài trong việc hưng thịnh đất nước.

TS. Nguyễn Bắc Son

Chuyển động của mỗi đất nước phụ thuộc lớn vào trí tuệ và bản lĩnh của tầng lớp trí thức. Để hướng tới một nền kinh tế phát triển, một xã hội dân chủ, văn minh và tích lũy được những giá trị tốt đẹp cho cuộc sống thì việc đào tạo, sử dụng nhân tài cho việc chấn hưng đất nước cần được coi là một trong những nhân tố tích cực nhất.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, trí thức Việt Nam luôn sát cánh cùng giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và nhân dân lao động cả nước đoàn kết, phấn đấu, cống hiến tài năng và trí tuệ, góp phần vào thắng lợi chung của dân tộc. Khẳng định đường lối chủ trương đúng đắn của Đảng, đánh giá cao sự cống hiến của đội ngũ trí thức, trong đó có đội ngũ trí thức nữ, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X đã thảo luận và thông qua một nghị quyết quan trọng - Nghị quyết số 27 - NQ/TW "Về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước". Những quan điểm đúng đắn của Đảng về đội ngũ trí thức, trong đó có trí thức nữ đã được khẳng định Xây dựng đội ngũ trí thức vững mạnh là trực tiếp nâng tầm trí tuệ của dân tộc, sức mạnh của đất nước, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng và chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị. Đầu tư xây dựng đội ngũ trí thức là đầu tư cho phát triển bền vữngcó chính sách và kế hoạch cụ thể để phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng trí thức trẻ, trí thức là những người đã có cống hiến trong hoạt động thực tiễn, trí thức người dân tộc thiểu số và trí thức nữ” [1].

Phụ nữ Việt Nam giữ một vai trò, vị trí quan trọng trong lịch sử dựng nước và giữ nước. Giải phóng và phát triển toàn diện phụ nữ là một trong những mục tiêu của cách mạng Việt Nam, có ảnh hưởng trực tiếp và lâu dài đến sự phát triển của đất nước. Bồi dưỡng lực lượng phụ nữ, phát huy sức mạnh, nâng cao tri thức và chăm lo sự phát triển mọi mặt của phụ nữ là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng của Đảng trong mọi thời kỳ cách mạng. Đặc biệt trong giai đoạn cách mạng hiện nay, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phụ nữ, trong đó có nữ trí thức là một yêu cầu quan trọng của sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội, là một mục tiêu quan trọng của công cuộc CNH-HĐH đất nước.

2. Thực trạng đội ngũ trí thức và công tác xây dựng đội ngũ trí thức của Đảng và Nhà nước ta

Trong mọi thời đại, tri thức luôn là nền tảng tiến bộ xã hội, là lực lượng nòng cốt sáng tạo và truyền bá tri thức. Trong suốt quá trình phát triển của lịch sử nhân loại, vai trò của trí thức rất lớn. C. Mác - Ph. Ăng-ghen, V.I. Lê-nin trên cơ sở tổng kết lịch sử xã hội loài người và thực tiễn đấu tranh cách mạng của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đã đánh giá cao vai trò, vị trí của tầng lớp trí thức trong cách mạng (XHCN). Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, giai cấp công nhân chỉ có thể hoàn thành sứ mạng lịch sử toàn thế giới của mình khi liên minh với các giai cấp và tầng lớp lao động khác mà trước hết là với giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức và lãnh đạo họ tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng.

Thế giới hiện nay đang chuyển từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức, đó là quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế chủ yếu dựa vào vốn và tài nguyên thiên nhiên sang nền kinh tế chủ yếu dựa vào tri thức con người. Nền kinh tế trong đó sản sinh ra, truyền bá và sử dụng tri thức là động lực chủ yếu của sự tăng trưởng, tạo ra của cải, việc làm trong tất cả các ngành kinh tế. Sự xuất hiện và phát triển của kinh tế tri thức là một bước nhảy vọt về chất của lực lượng sản xuất và nền văn minh nhân loại. Tỷ trọng của cải tri thức trong tài sản quốc gia của các nước cũng ngày càng gia tăng. Vai trò cốt lõi là tri thức và công nghệ trong mối quan hệ hữu cơ với đội ngũ trí thức ngày càng có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc.

Trong xu thế phát triển của nhân loại nói chung và của nền kinh tế tri thức nói riêng, hiện nay lao động trí óc đang ngày càng chiếm ưu thế, lao động chân tay đang thu hẹp dần. Nhiều quá trình sản xuất ra của cải vật chất xã hội được tự động hóa, tin học hóa, đòi hỏi người sản xuất phải có trình độ tri thức, chuyên môn cao, làm việc theo phương thức sáng tạo. Do vậy, tầng lớp trí thức đang phát triển nhanh chóng và chắc chắn sẽ trở thành bộ phận dân cư lớn, không những về số lượng mà cả vai trò, sức ảnh hưởng mạnh mẽ đến diễn tiến chính trị, kinh tế, xã hội. Đồng thời, họ sẽ là những người tạo ra phần lớn nhất của cải xã hội. Mặt khác, trong nền kinh tế tri thức, ranh giới của tầng lớp trí thức với các giai cấp, tầng lớp khác trong xã hội cũng không còn tách biệt rõ ràng như trước đây. Đã xuất hiện những bộ phận của giai cấp công nhân, nông dân và của các tầng lớp khác được trí thức hóa, lao động theo những đặc điểm của lao động trí thức.

Ngày nay, cùng với sự phát triển nhanh chóng của cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, đội ngũ trí thức trở thành nguồn lực đặc biệt quan trọng, tạo nên sức mạnh của mỗi quốc gia trong chiến lược phát triển. Trong hơn nửa thế kỷ qua, đội ngũ trí thức đã hình thành và phát triển thành một lực lượng lao động hùng hậu. Nói về trí thức, có nhiều khái niệm khác nhau. Tổng hợp từ nhiều khái niệm đó, Nghị Nghị quyết số 27 - NQ/TW "Về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước" khẳng định: “Trí thức là những người lao động trí óc, có trình độ học vấn cao về lĩnh vực chuyên môn nhất định, có năng lực tư duy độc lập, sáng tạo, truyền bá và làm giàu tri thức, tạo ra những sản phẩm tinh thần và vật chất có giá trị đối với xã hội” (1). Đội ngũ trí thức không chỉ có trình độ học vấn, chuyên môn cao, mà còn là những người quan tâm và có chính kiến trước những vấn đề chính trị - xã hội của thời cuộc. Đặc trưng nổi bật nhất của khái niệm trí thức là lao động trí óc và có tính sáng tạo. Kiểu lao động trí óc và sáng tạo ấy đặt ra đòi hỏi cao về tính độc lập của người trí thức trong tư duy, vận dụng kiến thức và kinh nghiệm đã được tích lũy cũng như năng lực chuyên môn nghề nghiệp để tìm ra biện pháp tối ưu giải quyết công việc. Tầng lớp trí thức là bộ phận rất nhạy cảm, có uy tín lớn cũng như tầm ảnh hưởng rộng trong xã hội; là những người có điều kiện thuận lợi trong việc tiếp nhận sớm nhất, nhiều nhất, nhanh nhất những thông tin xã hội.

Đội ngũ trí thức đã đóng góp tích cực vào xây dựng những luận cứ khoa học hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, góp phần làm sáng tỏ con đường phát triển của đất nước và giải đáp những vấn đề mới phát sinh trong sự nghiệp đổi mới; trực tiếp đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao dân trí và bồi dưỡng nhân tài; sáng tạo những công trình có giá trị về tư tưởng và nghệ thuật, nhiều sản phẩm chất lượng cao, có sức cạnh tranh; từng bước nâng cao trình độ khoa học và công nghệ của đất nước, vươn lên tiếp cận với trình độ của khu vực và thế giới. Trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH-HĐH) đất nước, trí thức là lực lượng tiên phong, được coi là "rường cột của đất nước", là "nguyên khí của quốc gia"..., có những đóng góp to lớn làm rạng danh non sông, đất nước. Vì vậy, phát triển đội ngũ trí thức, nâng tầm trí tuệ của cả dân tộc lên tầm cao mới - tầm cao trí tuệ của thời đại là nhiệm vụ lớn của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.

Sứ mệnh của đội ngũ trí thức Việt Nam trong sự nghiệp CNH-HĐH đất nước

Nhìn tổng thể, đội ngũ trí thức Việt Nam đã được phát triển lớn mạnh, có những đóng góp to lớn trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng vì độc lập, tự do của Tổ quốc và công cuộc xây dựng, phát triển đất nước. Với chính sách giáo dục của Đảng, Nhà nước, nhiều con em nhân dân lao động đã được đào tạo trở thành những cán bộ khoa học - kỹ thuật, nhà giáo, văn nghệ sỹ... Trong hơn 20 năm thực hiện chính sách đổi mới, đội ngũ trí thức trẻ đã phát triển từ các nguồn đào tạo phong phú hơn, tiếp nhận được những tri thức, kinh nghiệm từ các nước công nghiệp phát triển và các nước đang phát triển ở các khu vực trên thế giới. Đây là bộ phận trí thức năng động, có khả năng cập nhật các vấn đề hiện đại về khoa học, kỹ thuật, công nghệ, có khả năng lớn trong việc phát triển các mối quan hệ với các nước trong khu vực và thế giới, thúc đẩy nhanh tiến trình hội nhập quốc tế của đất nước.

Theo tài liệu chính thống, đến giữa năm 2007, Việt Nam có khoảng 2,6 triệu người có trình độ đại học trở lên (chiếm 4,5% lực lượng lao động), trong đó, có trên 18.000 Thạc sĩ, 16.000 Tiến sĩ và Tiến sĩ Khoa học, trên 6.000 Giáo sư, Phó Giáo sư. Ước tính tổng số trí thức, công chức, viên chức của cả nước hiện nay là khoảng 3,5 triệu người. Trí thức làm việc trong khu vực sự nghiệp chiếm 71%, khu vực hành chính chiếm gần 22% và khu vực kinh doanh 7%. Trí thức Việt Nam ở nước ngoài có khoảng 400.000 người, chiếm trên 10% số người Việt Nam đang ở nước ngoài [2].

Trí thức Việt Nam xuất thân từ nhiều giai cấp, tầng lớp xã hội, nhất là từ công nhân và nông dân; phần lớn trưởng thành trong xã hội mới, được hình thành từ nhiều nguồn đào tạo ở trong và ngoài nước, với nhiều thế hệ nối tiếp nhau, trong đó có bộ phận trí thức người Việt Nam ở nước ngoài. Đội ngũ trí thức nước ta có tinh thần yêu nước, có lòng tự hào, tự tôn dân tộc sâu sắc, luôn gắn bó với sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đây là một đặc điểm riêng của đội ngũ trí thức Việt Nam so với giới trí thức của nhiều nước đã trải qua giai đoạn phát triển chủ nghĩa tư bản. Đặc điểm đó đã tạo cho giới trí thức nước ta một ý thức gắn bó sâu sắc với nhân dân, thông cảm với người lao động, với hoàn đất nước còn nghèo nàn, lạc hậu, mong muốn xây dựng đất nước trở thành một quốc gia giàu mạnh, một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, có thể sánh vai với các nước có nền kinh tế phát triển trên thế giới. Từ thực tiễn lịch sử cũng có thể thấy, giới trí thức Việt Nam nhận thức rõ rằng: chỉ có sát vai cùng giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và nhân dân lao động nói chung mới có thể giải phóng cho họ, xóa được nghèo nàn, lạc hậu, xây dựng và phát triển đất nước.

3. Quan điểm chỉ đạo, mục tiêu của Đảng xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước

3.1. Quan điểm chỉ đạo

Đảng Cộng sản Việt Nam từ trước đến nay đều luôn nhấn mạnh quan điểm nhất quán là lấy "liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nòng cốt" của cách mạng. Điều này được thể hiện trong Chính cương, Điều lệ Đảng, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta và nhiều văn kiện khác. Quan điểm chỉ đạo đó thể hiện trong Nghị quyết số 27 - NQ/TW (khóa X).

- Trí thức Việt Nam là lực lượng lao động sáng tạo đặc biệt quan trọng trong tiến trình đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước và hội nhập quốc tế, xây dựng kinh tế tri thức, phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Xây dựng đội ngũ trí thức vững mạnh là trực tiếp nâng tầm trí tuệ của dân tộc, sức mạnh của đất nước, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng và chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị. Đầu tư xây dựng đội ngũ trí thức là đầu tư cho phát triển bền vững.

- Xây dựng đội ngũ trí thức là trách nhiệm chung của toàn xã hội, của cả hệ thống chính trị, trong đó trách nhiệm của Đảng và Nhà nước giữ vai trò quyết định. Trí thức có vinh dự và bổn phận trước Tổ quốc và dân tộc, không ngừng phấn đấu nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực chuyên môn, đóng góp nhiều nhất cho sự phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc.

- Thực hành dân chủ, tôn trọng và phát huy tự do tư tưởng trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo của trí thức vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động nghề nghiệp của trí thức. Trọng dụng trí thức trên cơ sở đánh giá đúng phẩm chất, năng lực và kết quả cống hiến; có chính sách đặc biệt đối với nhân tài của đất nước.

Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đã nhận thức rõ và đánh giá cao vai trò, vị trí của đội ngũ trí thức trong cách mạng giải phóng dân tộc cũng như trong công cuộc xây dựng đất nước. Ngay từ những ngày đầu của chế độ Việt Nam dân chủ cộng hòa, Người đã nói: "Những người trí thức tham gia cách mạng, tham gia kháng chiến rất quý báu cho Đảng. Không có những người đó thì công việc cách mạng khó khăn thêm nhiều". Trả lời các nhà báo nước ngoài về vai trò, vị trí của đội ngũ trí thức trong nhận thức, chính sách của Chính phủ cũng như trong thực tiễn cách mạng ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: "Trí thức là vốn liếng quý báu của dân tộc. ở nước khác như thế, ở Việt Nam càng như thế. Chứng thực là trong cuộc kháng chiến cứu quốc này, những người trí thức Việt Nam đã chung một phần quan trọng. Một số thì trực tiếp tham gia vào công việc kháng chiến, hy sinh cực khổ, chen vai thích cánh với bộ đội nhân dân. Một số thì hăng hái hoạt động giúp đỡ ở ngoài" (3). Bản thân Hồ Chí Minh là một trí thức yêu nước đi làm cách mạng. Người đã hết sức trọng dụng tầng lớp trí thức ưu tú của dân tộc, tạo điều kiện cho họ được cống hiến, được thể hiện đầy đủ nhất tài năng, vai trò và trách nhiệm của mình trong sự nghiệp chung của toàn dân. Hàng loạt trí thức trẻ - những học sinh, sinh viên yêu nước, giác ngộ cách mạng đã có mặt trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo trung kiên, giữ những vị trí quan trọng trong bộ máy Đảng, Nhà nước trong quá trình cách mạng giải phóng dân tộc như: Trần Phú, Lê Hồng Phong, Nguyễn Văn Cừ, Nguyễn Đức Cảnh, Lê Duẩn, Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Tố Hữu... Nhiều trí thức trưởng thành trong nước hay từ nước ngoài trở về như: Hồ Đắc Di, Đặng Văn Ngữ, Tạ Quang Bửu, Phạm Ngọc Thạch, Huỳnh Tấn Phát, Nghiêm Xuân Yêm, Trần Đại Nghĩa, Lương Định Của, Tôn Thất Tùng, Phạm Huy Thông, Trần Duy Hưng, Đặng Thai Mai, Nguyễn Đình Thi... đã đi theo cách mạng ngay từ những ngày đầu độc lập, sẵn sàng chịu đựng những thử thách khó khăn, gian khổ, hy sinh trong kháng chiến chống thực dân, đế quốc, đóng góp tài năng, trí tuệ cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, dành độc lập, tự do cho đất nước. Ngay cả trong Chính phủ lâm thời năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã mời các nhân sĩ trí thức không phải là đảng viên Đảng Cộng sản tham gia và giữ những trọng trách như: Huỳnh Thúc Kháng, Phan Kế Toại...[4]

Trong những năm đổi mới, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách để đội ngũ trí thức phát triển nhanh về số lượng và nâng lên về chất lượng, phát huy vai trò trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Đảng đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, đặc biệt là các nghị quyết chuyên đề về giáo dục - đào tạo, khoa học v- công nghệ, văn hoá -văn nghệ…để tạo động lực thúc đẩy sự sáng tạo, cống hiến của đội ngũ trí thức. Nhà nước đã thực hiện các chính sách xây dựng và từng bước hoàn thiện hệ thống đào tạo, nghiên cứu; đổi mới cơ chế quản lý, tăng cường đầu tư cho sự nghiệp giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, văn hoá - văn nghệ; các chính sách sử dụng và tạo môi trường phát huy vai trò của trí thức; chính sách đãi ngộ, tôn vinh trí thức, lập các giải thưởng quốc gia, phong tặng các chức danh khoa học, các danh hiệu cao quý; thu hút trí thức người Việt Nam ở nước ngoài…

3.2. Mục tiêu

Việt Nam đang phấn đấu đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Mục tiêu của CNH-HĐH là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất, kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất thích ứng với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Nghị quyết của Đại hội VIII của Đảng (1996) dự đoán đến năm 2020, GDP tăng từ 8 - 10 lần so với năm 1990. Khoa học tự nhiên và khoa học công nghệ có khả năng nắm bắt và vận dụng được nhiều thành tựu mới nhất của cách mạng khoa học và công nghệ. Khoa học xã hội và nhân văn có khả năng làm cơ sở cho việc xây dựng hình thái ý thức xã hội mới, thể hiện dưới những hình thức chính trị, tư tưởng, ý thức pháp quyền, đạo đức, khoa học, nghệ thuật. Sự phát triển của khoa học đủ sức cung cấp luận cứ cho việc hoạch định các chính sách, chiến lược và quy hoạch phát triển. Từ nay đến năm 2020, cách mạng khoa học và công nghệ tiếp tục phát triển ở trình độ ngày càng cao, lực lượng sản xuất tăng nhanh, đồng thời, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế thế giới, quốc tế hóa nền kinh tế và đời sống xã hội; cuộc cạnh tranh kinh tế, thương mại, khoa học, kỹ thuật, công nghệ diễn ra gay gắt, đòi hỏi phải đổ vào đấy rất nhiều chất xám của giới trí thức.

Mục tiêu sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020 đòi hỏi phải lựa chọn con đường phát triển rút ngắn, phát huy đến mức cao nhất mọi nguồn lực, tiềm năng trí tuệ của dân tộc, đặc biệt là năng lực sáng tạo của đội ngũ trí thức. Nghị quyết số 27 - NQ/TW (khóa X) xác định rõ mục tiêu “Đến năm 2020, xây dựng đội ngũ trí thức lớn mạnh, đạt chất lượng cao, số lượng và cơ cấu hợp lý, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước, từng bước tiến lên ngang tầm với trình độ của trí thức các nước tiên tiến trong khu vực và thế giới. Gắn bó vững chắc giữa Đảng và Nhà nước với trí thức, giữa trí thức với Đảng và Nhà nước, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh công - nông - trí. Trong những năm trước mắt, hoàn thiện các cơ chế, chính sách đã ban hành, xây dựng cơ chế, chính sách mới nhằm phát huy có hiệu quả tiềm năng của đội ngũ trí thức; xây dựng chiến lược phát triển đội ngũ trí thức đến năm 2020”.

4. Quan điểm của Đảng về đội ngũ cán bộ nữ, trong đó có nữ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước

Trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc, phụ nữ Việt Nam đã có những đóng góp to lớn cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Ngay từ những buổi đầu lập nước, khi gặp nạn ngoại bang xâm lược, bà Trưng, bà Triệu đã dấy binh khởi nghĩa đánh đuổi quân thù. Đến thế kỷ XX, qua 2 cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, lịch sử ghi nhận hàng vạn tấm gương phụ nữ không ngại gian khổ, không tiếc máu xương, sẵn sàng chiến đấu, lao động, hy sinh, cống hiến không chỉ cuộc đời mình mà cả con em cho độc lập tự do của Tổ quốc. Phụ nữ không chỉ chiến đấu anh hùng mà đã lao động cần cù, gian khó để vượt lên cảnh đói nghèo và lạc hậu, góp phần xây dựng đất nước ngày càng to đẹp và đàng hoàng hơn như mong ước của Bác Hồ kính yêu. Giải phóng phụ nữ, thực hiện quyền bình đẳng để phát huy khả năng to lớn của phụ nữ luôn được coi là nhiệm vụ lớn lao, một bộ phận quan trọng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và phát triển đất nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh - người đã cống hiến cả cuộc đời mình cho nhân dân, đất nước luôn quan đánh giá cao và quan tâm đến sự nghiệp giải phóng phụ nữ “Non sông gấm vóc Việt Nam do phụ nữ ta, trẻ cũng như già, ra sức dệt thêu mà thêm tốt đẹp, rực rỡ...Muốn có nhiều sức lao động để sản xuất thì phải giải phóng sức lao động phụ nữ. Nói phụ nữ là nói phân nửa xã hội. Nếu không giải phóng phụ nữ thì không giải phóng một nửa loài người. Nếu không giải phóng phụ nữ là xây dựng CNXH chỉ một nửa” (5).

Thật vậy, phụ nữ là một nửa của một thể thống nhất không thể tách rời của xã hội. Khó có thể đưa một đất nước nào đó thoát khỏi lạc hậu trở nên thịnh vượng mà ở đó lại xem nhẹ phụ nữ. Cho đến nay, vai trò của người phụ nữ ngày càng được đánh giá một cách đầy đủ hơn, đặc biệt là thời kỳ CNH-HĐH, phát triển kinh tế thị trường, hội nhập nền kinh tế trí thức và hội nhập kinh tế quốc tế. Đặc biệt ngày nay, khi giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ đang thực sự trở thành động lực quan trọng của sự phát triển thì việc đầu tư để nâng cao trình độ văn hoá, chuyên môn nghiệp vụ, phát triển trí tuệ cho con người, trong đó có phụ nữ là sự đầu tư có hiệu quả thiết thực, lâu dài và có tầm quan trọng chiến lược đối với sự nghiệp CNH-HĐH đất nước. Trong quá trình phát triển, nhân lực trí tuệ sẽ giữ một vai trò ngày càng quyết định. Phụ nữ chiếm hơn một nửa dân số. Nếu phụ nữ không được nâng cao tri thức như nam giới để có một tỉ lệ tương ứng ở các trình độ khác nhau là gây nên sự lãng phí nhân lực trí tuệ của toàn xã hội.

Ngoài những đặc điểm chung của trí thức, nữ trí thức Việt Nam có những đặc thù riêng là xuất thân chủ yếu từ công nhân, nông dân và trí thức. Theo những số liệu mới nhất, tỷ lệ nữ trí thức xuất thân từ tầng lớp trí thức càng cao hơn so với những tầng lớp khác, chủ yếu do quan niệm tiến bộ về nữ giới ở tầng lớp này.

Quan điểm, đường lối của Đảng đã đảm bảo và phát huy vị trí và vai trò tham gia của phụ nữ vào mọi mặt của đời sống xã hội, trong đó có khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo, bởi các quan điểm và đường lối này là những tuyên bố chính thức làm cơ sở đảm bảo hành lang pháp lý cho sự tham gia của phụ nữ vào các hoạt động của đời sống xã hội. Hơn nữa, các quan điểm và đường lối của Đảng được coi là một công cụ hữu hiệu làm thay đổi nhận thức xã hội về vai trò và khả năng của phụ nữ trong việc tham gia các hoạt động xã hội. Các quan điểm đó đều khẳng định một cách xuyên suốt và nhất quán: phụ nữ có quyền bình đẳng tham gia mọi mặt của đời sống xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn căn dặn “Đảng và Chính phủ cần phải có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng cất nhắc và giúp đỡ để ngày thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc lãnh đạo” [5].

Ngay từ năm 1930, khi mới ra đời, Đảng đã đề cao tư tưởng “Nam nữ bình quyền” và coi việc thực hiện tư tưởng đó là một trong 10 nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng Việt Nam. Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà năm 1946 khẳng định: “Đàn bà ngang quyền đàn ông về mọi phương diện” (Điều 9, Hiến pháp 1946). Hiến pháp 1959 đã cụ thể hoá thêm một bước, theo đó “Phụ nữ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà có quyền bình đẳng với nam giới về mọi mặt sinh hoạt, chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá và gia đình.” (Điều 14, Hiến pháp năm 1959). Hiến pháp năm 1992, điều 63 nhấn mạnh rõ hơn rằng Phụ nữ có quyền bình đẳng, và quyền đó được pháp luật công nhận và bảo vệ: “Công dân nữ và nam có quyền ngang nhau về mọi mặt chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá và gia đình. Nghiêm cấm mọi hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ, xúc phạm nhân phẩm phụ nữ”. Sự tôn trọng quyền bình đẳng tham gia và sự bảo vệ quyền đó đã được cụ thể hoá thông qua các điều luật liên quan đến phụ nữ trong một số bộ luật cơ bản như Luật hôn nhân và gia đình, Luật dân sự, Luật lao động, Luật giáo dục.

Vị trí và vai trò của phụ nữ được đặt trong mối quan hệ biện chứng với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Đảng ta, một mặt đánh giá cao khả năng và sự cần thiết tham gia của phụ nữ, coi đó không chỉ là yếu tố quan trọng đảm bảo sự thành công của cách mạng, sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, mà đó còn là điều kiện để thông qua đó phụ nữ cải thiện được vị trí xã hội của mình. Việc thực hiện bình đẳng giới là một công việc khó khăn, lâu dài và phức tạp. Hồ Chí Minh đã nói: “ Trọng nam khinh nữ là thói quen mấy nghìn năm để lại vì nó đã ăn sâu trong đầu óc mọi người, mọi gia đình, mọi tầng lớp xã hội. Nó đã trở thành một vấn đề tâm lý xã hội. Bởi vậy, cuộc đấu tranh chống phân biệt đối xử với phụ nữ là cuộc đấu tranh tư tưởng lâu dài, khó thực hiện” [5].

Sự nghiệp giải phóng phụ nữ, tạo ra điều kiện để phát huy tiềm năng của phụ nữ, từ đó nâng cao vị thế của phụ nữ không thể coi chỉ là trách nhiệm của bản thân họ, mà là của toàn xã hội, của Đảng, của Nhà nước. Nghị quyết 153 NQ/TW (10/1/1967) của Ban Bí thư khẳng định trách nhiệm đối với việc phát huy vai trò phụ nữ là sự nghiệp của Đảng, là trách nhiệm của xã hội “Lực lượng phụ nữ, trong đó có đội ngũ xung kích là lực lượng cán bộ phụ nữ ở tất cả các lĩnh vực, phải phát huy vai trò chủ động của mình...Sự nghiệp giải phóng phụ nữ là trách nhiệm chung của toàn Đảng, của Nhà nước, của xã hội.”

Chỉ thi 44 CT/TW (7-6-1984) đã nhấn mạnh rằng đội ngũ cán bộ nữ đã được đào tạo, bồi dưỡng ngày càng lớn mạnh về số lượng và chất lượng, vai trò quan trọng của đội ngũ cán bộ nữ trong mọi lĩnh vực hoạt động. Chỉ thị đã yêu cầu trong công tác quy hoach đội ngũ cán bộ cần tính đến các cán bộ nữ. Chỉ thị nêu rõ: “Tiếp tục thực hiện nam nữ bình đẳng, nâng cao vai trò cán bộ nữ trong quản lí kinh tế, quản lí nhà nước... Vấn đề cán bộ nữ phải đặt trong việc xây dựng và thực hiện chủ trương quy hoạch cán bộ nói chung của Đảng và nhà nước

Các quan điểm, đường lối về phụ nữ của Đảng ngày càng được cụ thể hoá hơn nữa trong thời kỳ đổi mới. Chủ trương của Ðảng về công tác phụ nữ và bình đẳng giới được thể hiện xuyên suốt trong các nghị quyết và chỉ thị của Bộ Chính trị, Ban Bí thư về công tác cán bộ nữ, trong đó có công tác trí thức nữ. Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách cụ thể nhằm tạo điều kiện để phụ nữ phát triển và thúc đẩy bình đẳng giới. Sự nghiệp giải phóng phụ nữ, tạo ra điều kiện để phát huy tiềm năng của phụ nữ, từ đó nâng cao vị thế của phụ nữ không thể coi chỉ là trách nhiệm của bản thân họ, mà là của toàn xã hội, của Đảng. Các quan điểm này đã từng bước được cụ thể hoá thành các chiến lược, quy hoạch gắn liền với những chiến lược phát triển kinh tế- xã hội, quy hoạch phát triển đội ngũ cán bộ, trong đó có đội ngũ cán bộ nữ và nữ trí thức.

Sự tăng cường mối quan tâm và cụ thể hoá các quan điểm đối với phụ nữ nói chung và phụ nữ trí thức nói riêng được thể hiện rõ nét ở các nghị quyết của Đảng.

Quan điểm chỉ đạo của Đại hội Đảng lần thứ VI đã đánh giá cao vai trò của phụ nữ nói chung và nữ tri thức nói riêng trong sự nghiệp đổi mới “Phải xem giải phóng phụ nữ là một mục tiêu và nội dung quan trọng của công cuộc đổi mới và sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta...Xây dựng người phụ nữ Việt Nam có sức khỏe, có kiến thức, năng động, sáng tạo, biết làm giàu chính đáng, quan tâm đến lợi ích xã hội và cộng đồng...” [6]

Ngày 12-7-1993, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 04/NQTW về “Đổi mới công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới” khẳng định vai trò và vị trí của người phụ nữ với 3 quan điểm, trong đó nhấn mạnh một trong những mục tiêu giải phóng phụ nữ để thực hiện tốt nam nữ bình đẳng là xây dựng người phụ nữ “có sức khỏe, kiến thức, năng động, sáng tạo...”. Nghị quyết đã “Đặt vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ nữ thành nhiệm vụ có tính chiến lược trong toàn bộ công tác cán bộ của Đảng và Nhà nước. Trên cơ sở quy hoạch, có kế hoạch tạo nguồn, đào tạo bồi dưỡng cán bộ nữ, tạo điều kiện để cán bộ nữ cống hiến và trưởng thànht”. Nghị quyết TW đã nhấn mạnh đến cả quan điểm nhìn nhận, đánh giá, đối xử trong sử dụng, đề bạt cán bộ nữ lẫn đề ra các giải pháp: quy hoạch, tạo nguồn, đào tạo, bồi dưỡng, tạo điều kiện để phát huy tiềm năng của cán bộ nữ.

Sau Nghị quyết 04/NQTW, ngày 16/5/1999, Ban Bí thư ban hành tiếp Chỉ thị 37/CT-TW “Về một số vấn đề công tác cán bộ nữ trong tình hình mới”, nêu rõ một số quy định, biện pháp cụ thể, đó là: Xây dựng chiến lược đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ nữ, tăng cường tỷ lệ nữ tham gia quản lý, lãnh đạo và khuyến khích tiềm năng tham gia của phụ nữ, đặc biệt là đội ngũ trí thức, nữ làm khoa học. Những ngành đông nữ và những ngành mà chức năng nhiệm vụ có liên quan đến vấn đề nữ phải có tỉ lệ nữ cán bộ tương xứng, phải có cán bộ nữ giữ vị trí lãnh đạo chủ chốt các cấp. Những nữ cán bộ khoa học có tài, những nữ cán bộ quản lý giỏi cần dược khuyến khích sử dụng, khi cần thiết có thể nghỉ hưu ở tuổi 60 như nam giới.

Nghị quyết số 11-NQ/TW về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước thể hiện sự quan tâm lãnh đạo của Ðảng với công tác phụ nữ và thực hiện mục tiêu bình đẳng giới. Nghị quyết xác định những mục tiêu quan trọng về công tác phụ nữ nói chung, trong đó có công tác nữ: Phát huy vai trò, tiềm năng to lớn của phụ nữ trong sự nghiệp CNH-HĐH, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao địa vị phụ nữ, thực hiện bình đẳng giới trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội là một trong những nhiệm vụ và mục tiêu quan trọng của cách mạng Việt Nam trong thời kỳ mới.

Công tác phụ nữ phải sát hợp với từng đối tượng, vùng, miền, phát huy được tinh thần làm chủ, tiềm năng, sức sáng tạo và khả năng đóng góp cao nhất của các tần lớp phụ nữ, góp phần tạo nên sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc để phát triển đất nước; đồng thời phải chăm lo cho phụ nữ tiến bộ về mọi mặt, quan tâm đầy đủ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng để phụ nữ có điều kiện thực hiện tốt vai trò người công dân, người lao động, người mẹ, người thầy đầu tiên của con người.

Xây dựng, phát triển vững chắc đội ngũ cán bộ nữ tương xứng với vai trò to lớn của phụ nữ là yêu cầu khách quan, là nội dung quan trọng trong chiến lược công tác cán bộ của Ðảng.

Công tác phụ nữ là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội và từng gia đình. Trong đó, hạt nhân lãnh đạo là các cấp ủy đảng, trách nhiệm trực tiếp và chủ yếu là cơ quan quản lý nhà nước các cấp, vai trò chủ thể là phụ nữ mà nòng cốt là các cấp Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam [7].

Từ quan điểm trên, Nghị quyết đặt ra mục tiêu: Phấn đấu đến năm 2020, phụ nữ được nâng cao trình độ về mọi mặt, có trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu CNH-HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế; có việc làm, được cải thiện rõ rệt về đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần; tham gia ngày càng nhiều hơn công việc xã hội, bình đẳng trên mọi lĩnh vực; đóng góp ngày càng lớn hơn cho xã hội và gia đình. Phấn đấu để nước ta là một trong các quốc gia có thành tựu bình đẳng giới tiến bộ nhất của khu vực.

Đường lối của Đảng về cán bộ nữ và nữ trí thức được thể chế hóa bằng các văn bản pháp quy của Nhà nước. Đó là Quyết định 82/Ttg của Thủ tướng Chính phủ ngày 10-10-1997 “Đưa quan điểm bình đẳng giới vào các lĩnh vực hoạch định chính sách phát triển kinh tế, các chương trình quốc gia của các ngành, các cấp”; QĐ 82/Ttg của Thủ tướng Chính phủ, “Uỷ ban quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ” đã được thành lập ở trung ương và các cấp tỉnh/thành, huyện thị...; thành lập ở các bộ/ngành đến các đơn vị cơ sở. Công tác đảm bảo bình đẳng giới, chăm lo đến sự phát triển của phụ nữ không còn là chuyện riêng của Hội phụ nữ mà là của Đảng, Chính phủ, các cấp, các ngành: Quyết định 19/2002/QĐ-Ttg của Thủ tướng Chính phủ ngày 21/1/2002 về Phê duyệt Chiến lược quốc gia Vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam đến 2010, đã nêu rõ: “Mục tiêu 4: Nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của phụ nữ trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội để tăng số phụ nữ được giới thiệu và bầu tham gia lãnh đạo các cấp, các ngành”. Các biện pháp gồm: Quy hoạch đội ngũ cán bộ nữ, hoàn thiện hệ thống chính sách đối với cán bộ nữ; thực hiện lồng ghép giới trong chính sách phát triển nhân lực. Ngày 11/10/2002, Hội LHPNVN đã trình được Thủ tướng Chính phủ đồng ý cho Hội thành lập Quỹ “Giải thưởng Phụ nữ Việt Nam” với các nguồn lực do Hội vận động từ các tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước. Luật Bình Đẳng Giới Quốc hội Nước Cộng hoà XHCN Việt Nam khoá XI, Kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 21/11/2006 có ghi “Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực cho lao động nữ” (Điều 13. Bình đẳng giới trong lĩnh vực lao động), “Nam, nữ bình đẳng trong việc tiếp cận và hưởng thụ các chính sách về giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ” (Điều 14. Bình đẳng giới trong lĩnh vực giáo dục – đào tạo) các hành vi vi phạm pháp luật về bình đẳng giới trong lĩnh vực khoa học và công nghệ “cản trở nam, nữ tham gia hoạt động khoa học, công nghệ; từ chối việc tham gia của một giới trong các khoá đào tạo về khoa học và công nghệ”...

Trong những năm vừa qua, trên cơ sở thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, công tác cán bộ nữ đã có những kết quả đáng kể. Theo đánh giá tình hình giới "Việt Nam là một trong những nước dẫn đầu thế giới về tỷ lệ nữ tham gia các hoạt động kinh tế và dẫn đầu khu vực châu á - Thái Bình Dương về tỷ lệ nữ trong Quốc hội" [8]. Đại biểu nữ trong Quốc hội (khóa XII) là 33,1% cao nhất ở châu Á và là một trong những nước có tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội cao nhất thế giới. Số phụ nữ tham gia Hội đồng nhân dân các cấp trên 20%. Ở những lĩnh vực khác như ngành giáo dục đào tạo nữ chiếm tỷ lệ cao 70%. Tỷ lệ cán bộ nữ nhiệm kỳ hiện tại trong các cấp ủy tăng so với trước: trong Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX có 8,6%; khóa X: 8,12% (chính thức), 14,28% (dự khuyết); ban chấp hành tỉnh/thành ủy nhiệm kỳ 2001 - 2005: 11,32%; nhiệm kỳ 2005 - 2010: 11,75%; Ban Chấp hành quận/huyện nhiệm kỳ 2001 - 2005: 12,89%; nhiệm kỳ 2005 - 2010: 14,74%; Ban chấp hành xã/phường: nhiệm kỳ 2001 - 2005: 11,88%; nhiệm kỳ 2005 - 2010: 15,08%. Ở cấp Trung ương, cả 3 khóa đều có cán bộ nữ tham gia lãnh đạo cấp cao của Đảng: khóa VIII có nữ ủy viên Bộ Chính trị; khóa VII, IX, X có nữ tham gia Ban Bí thư Trung ương Đảng. Cán bộ nữ giữ cương vị chủ nhiệm, phó chủ nhiệm các ủy ban của Quốc hội chiếm tỷ lệ 25%. Thành tựu này đã đưa Việt Nam lên vị trí thứ nhất châu Á và thứ hai khu vực châu Á - Thái Bình Dương về tỷ lệ nữ tham gia Quốc hội. Tỷ lệ phụ nữ là đại biểu hội đồng nhân dân các cấp cũng tăng dần. So sánh giữa nhiệm kỳ 1999 - 2004 và nhiệm kỳ 2004 - 2009: cấp tỉnh/thành tăng từ 22,33% lên 23,83%; cấp quận/huyện tăng từ 20,12% lên 22,94%, và cấp xã/phường từ 16,56% lên 20,10%.

Trong lịch sử hình thành và phát triển của dân tộc Việt Nam, người phụ nữ đã có những đóng góp cực kỳ quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Lịch sử xã hội Việt Nam đã chứng minh, yếu tố quyết định vị thế xã hội và gia đình của người phụ nữ Việt Nam chính là vai trò quan trọng của họ với sự đóng góp thực sự to lớn cho sự nghiệp bảo vệ và phát triển đất nước, người phụ nữ Việt Nam từ thế hệ này sang thế hệ khác, đã nối tiếp nhau, sánh vai cùng nam giới trong việc chống thiên tai, địch họa, trong xây dựng tổ ấm gia đình hạnh phúc, góp phần xây dựng và củng cố đất nước, tạo dựng tình tương thân, tương ái trong cộng đồng xã hội.

Trong lĩnh vực khoa học và công nghệ, lượng nữ chiếm một tỷ lệ đáng kể 42,2%. Nhiều nữ trí thức đã được Đảng và Nhà nước trao cho những giải thưởng cao quý, nhiều nhà khoa học nữ được nhà nước tôn vinh là anh hùng lao động, cấp bằng lao động sáng tạo, các giải thưởng trong và ngoài nước. Giải thưởng Kovalevskaia được trao hàng năm là một minh chứng cho việc tôn vinh nữ trí thức Việt Nam. Kể từ khi thành lập đến nay (1985), Ủy ban Giải thưởng Kovalevskaia Việt Nam đã xét, chọn và trao giải thưởng cho 30 cá nhân và 14 tập thể các nhà khoa học nữ xuất sắc, tiêu biểu nhất trong lĩnh vực khoa học tự nhiên. Đó là tập thể nữ cán bộ nghiên cứu Viện Dinh dưỡng, đứng đầu là Viện trưởng PGS.TS Lê Thị Hợp (Bộ Y tế) trong suốt 28 năm liền đã có những cống hiến không nhỏ trong việc chăm sóc sức khoẻ, đời sống của nhân dân, cống hiến cho sự nghiệp dinh dưỡng nước nhà. Tập thể cán bộ khoa học nữ Phòng Polyme, Viện Hóa học - Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam với Thuốc kem Pokysan chữa trị bỏng. Tập thể cán bộ nữ công ty cổ phần Traphaco xây dựng quy trình sản xuất dược liệu sạch và chế biến sạch để bào chế một số chế phẩm chất lượng cao. Đại tá, PGS. TS Nguyễn Thị Thu Hà, Bệnh viện T.Ư Quân đội 108 đã Ghép tế bào máu ngoại vi tự thân. PGS. TS, Trần Thị Luyến Phó hiệu trưởng ĐH Thủy Sản Nha Trang với quy trình công nghệ sản xuất Chitozan từ vỏ ghẹ. GS.TS.Nhà giáo ưu tú Đặng Kim Chi - Nguyên Phó Viện trưởng, Viện Khoa học và Công nghệ Môi trường, Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội - một chuyên gia hàng đầu về môi trường, đã có 37 năm liên tục tham gia giảng dạy, nghiên cứu khoa học và quản lý; có nhiều đóng góp trong nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ và đào tạo; là một trong những thành viên đầu tiên góp phần gầy dựng nên Viện Khoa học và Công nghệ môi trường…Đây là một chương trình có ý nghĩa to lớn đối với hoạt động của Hội LHPN Việt Nam và phong trào phụ nữ nhằm tôn vinh những tập thể và cá nhân các nhà khoa học nữ đã có thành tích xuất sắc trong nghiên cứu và ứng dụng khoa học vào thực tiễn cuộc sống, đem lại những lợi ích đáng kể trên các lĩnh vực kinh tế -xã hội, khẳng định vai trò to lớn của đội ngũ nữ trí thức trong sự phát triển đi lên của đất nước, đồng thời là diễn đàn trao đổi về những cơ hội, những thách thức đối với nữ trí thức trong quá trình phấn đấu đạt được những thành tựu khoa học, qua đó đề xuất với Đảng, Nhà nước những chính sách và cơ chế nhằm tạo điều kiện cho nữ trí thức phát huy tiềm năng, đóng góp nhiều hơn nữa cho công cuộc CNH-HĐH đất nước.

Chủ tịch Nguyễn Minh Triết khẳng định trong buổi tiếp các trưởng đoàn dự cuộc họp Mạng lưới lãnh đạo nữ lần thứ 11 (WLN) của diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC) tháng 9/2006 tại Hà Nội: “Ðảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam nhận thức rõ về vai trò của phụ nữ trong phát triển và hội nhập quốc tế. Ở Việt Nam, vai trò của phụ nữ rất quan trọng. Trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, phụ nữ tham gia rất tích cực trong nhiều hoạt động. Trong thời kỳ hòa bình và xây dựng đất nước, phụ nữ giữ cương vị lãnh đạo ở mọi lĩnh vực kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật... Vai trò của phụ nữ hoàn toàn xứng đáng với tám chữ vàng mà Ðảng, Nhà nước và nhân dân dành tặng: Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang".

Là một tổ chức chính trị - xã hội với chức năng đại diện cho quyền bình đẳng dân chủ, lợi ích hợp pháp và chính đáng của phụ nữ, tham gia quản lý Nhà nước, tham gia xây dựng Đảng, Đảng đoàn Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam luôn chủ động trong công tác tham mưu, tổ chức triển khai, thực hiện kịp thời các chủ trương của Đảng, góp phần làm chuyển biến nhận thức và hành động về công tác cán bộ nữ. Hội tham mưu xây dựng dự thảo Nghị quyết về "Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong công tác vận động phụ nữ và cán bộ nữ thời kỳ CNH-HĐH đất nước", chủ động phối hợp với các tỉnh, thành ủy chuẩn bị nhân sự Đại hội Đảng bộ các cấp, đề xuất những kiến nghị giúp các cấp ủy tăng cường cán bộ nữ tham gia cấp ủy nhằm bảo đảm tỷ lệ 15%, như tinh thần Chỉ thị số 46 của Bộ Chính trị…

Với sự quan tâm của Đảng, sự tham mưu tích cực của Đảng đoàn Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Ủy ban quốc gia Vì sự tiến bộ phụ nữ Việt Nam, đội ngũ cán bộ nữ trong những năm qua đã vươn lên, vượt qua nhiều khó khăn, thách thức không ngừng trưởng thành, từng bước đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ mới. Nhiều cán bộ nữ được giao giữ những cương vị lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể; nhiều chị trở thành những nhà khoa học, văn nghệ sĩ tài năng, những cán bộ quản lý các doanh nghiệp thành đạt. Trong thử thách của nền kinh tế thị trường và sự nghiệp CNH-HĐH, phần lớn cán bộ nữ được đào tạo cơ bản, có chuyên môn nghiệp vụ; nhạy bén, năng động, sáng tạo; có trách nhiệm cao trong công tác và tinh tế trong ứng xử; giữ được lối sống lành mạnh, có phẩm chất tốt, có bản lĩnh chính trị vững vàng, tôn trọng kỷ luật, tuân thủ pháp luật, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Nhiều cán bộ là những tấm gương lao động sáng tạo tiêu biểu cho phụ nữ Việt Nam. Đó là kết quả quá trình đào tạo, bồi dưỡng, giúp đỡ và chăm lo của các cấp ủy, sự phấn đấu của chính bản thân mỗi cán bộ nữ, thể hiện sự nỗ lực của các cấp ủy, chính quyền các cấp trong nhận thức và hành động nhằm phát huy vị trí, vai trò, của đội ngũ cán bộ nữ.

5. Giải pháp xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức nữ ngang tầm với yêu cầu, nhiệm vụ của công cuộc xây dựng, phát triển đất nước trong giai đoạn mới:

1 - Hoàn thiện môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động của trí thức, trong đó chú trọng việc thể chế hóa các chủ trương, chính sách xã hội nhằm xây dựng một môi trường thực sự dân chủ, tôn trọng và bảo vệ các điều kiện lao động sáng tạo, các chế độ đãi ngộ thích đáng đối với trí thức. Có chính sách và cơ chế để tạo điều kiện phát huy năng lực chuyên môn, khoa học của các chuyên gia, các nhà khoa học và công nghệ trình độ cao, những tài năng lớn trong các lĩnh vực văn hóa, văn học, nghệ thuật... Nhà nước sẽ tiếp tục đầu tư nguồn lực tài chính, cơ sở vật chất, kỹ thuật, xây dựng những khu công nghệ, các trường đại học trọng điểm, các cơ sở phục vụ nghiên cứu và thực nghiệm, cũng như mở rộng hợp tác quốc tế, mở ra nhiều khả năng cho đội ngũ trí thức học tập, nâng cao trình độ và cống hiến.

2 - Xây dựng chính sách trọng dụng, đãi ngộ và tôn vinh trí thức, trong đó quy định rõ trách nhiệm và trao quyền tự chủ cho từng cấp, từng ngành, từng vị trí cán bộ lãnh đạo, quản lý trong việc sử dụng, bổ nhiệm và thực thi các chính sách đãi ngộ của Nhà nước với trí thức, đặc biệt là đối với cán bộ đầu ngành, những người có trình độ chuyên môn - kỹ thuật cao. Có cơ chế, chính sách để động viên và sử dụng có hiệu quả những trí thức có sức khỏe, có trình độ, năng lực chuyên môn tốt nhưng đã hết tuổi lao động. Cùng với chế độ ưu đãi về lương, điều kiện làm việc cho trí thức trong nước, Nhà nước xây dựng chính sách để thu hút các trí thức Việt kiều tham gia công cuộc xây dựng, phát triển đất nước.

3 - Tạo chuyển biến căn bản trong đào tạo, bồi dưỡng trí thức, bao gồm cải cách giáo dục, nâng cao chất lượng đào tạo đại học và sau đại học; đổi mới cơ chế quản lý, vận hành các trường đại học, các viện nghiên cứu; thực hiện tốt việc đưa sinh viên có triển vọng đi đào tạo ở nước ngoài; bồi dưỡng đội ngũ trí thức trẻ và mở ra nhiều hình thức, huy động các nguồn lực xã hội tham gia bồi dưỡng, đào tạo lại để đội ngũ trí thức đáp ứng kịp thời yêu cầu thực tiễn của công cuộc CNH-HĐH đất nước và hội nhập quốc tế hiện nay.

4 - Củng cố và phát triển các hội trí thức nhằm nâng cao vai trò của các tổ chức này trong việc tập hợp, đoàn kết, góp phần phát huy năng lực chuyên môn, khoa học, nâng cao và cập nhật tri thức, giáo dục lòng yêu nước, ý thức trách nhiệm công dân của đội ngũ trí thức. Tạo điều kiện và cơ chế để các hội trí thức thực hiện tốt vai trò giám sát, phản biện xã hội, tham gia tích cực vào quá trình hoạch định chính sách của Đảng và Nhà nước.

5 - Nâng cao chất lượng công tác lãnh đạo của Đảng đối với trí thức, trước hết là nâng cao nhận thức của cấp ủy, chính quyền các cấp về vai trò, vị trí của trí thức cũng như của công tác trí thức trong sự nghiệp CNH-HĐH. Làm tốt công tác tư tưởng để, một mặt, làm cho toàn xã hội mà trước hết là đội ngũ cán bộ, đảng viên hiểu đúng về vai trò của trí thức; mặt khác, nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm của đội ngũ trí thức đối với đất nước, với chế độ. Cán bộ, đảng viên, các cơ quan, tổ chức của Đảng có trách nhiệm theo dõi, kiểm tra, đánh giá, uốn nắn kịp thời những sai sót, hạn chế trong việc đề ra và thực hiện các chính sách, chế độ đối với trí thức, đồng thời xây dựng và thực hiện cơ chế bảo đảm quyền và trách nhiệm của đội ngũ trí thức trong góp ý kiến xây dựng, phản biện các chủ trương, chính sách kinh tế - xã hội. Quán triệt sâu sắc các quan điểm, mục tiêu công tác phụ nữ trong tình hình mới nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền, các tổ chức chính trị-xã hội, tạo bước chuyển biến rõ rệt về hiệu quả công tác phụ nữ ở từng ngành, địa phương, đơn vị. Các cấp ủy đảng có trách nhiệm lãnh đạo xây dựng quy hoạch cán bộ nữ trong quy hoạch tổng thể về cán bộ của Ðảng ở từng cấp, từng ngành, từng địa phương. Ðối với cán bộ nữ, đồng thời với việc xây dựng quy hoạch, phải chăm lo đào tạo, bồi dưỡng để chủ động về nhân sự; đề bạt, bổ nhiệm cần bảo đảm tiêu chuẩn của từng chức danh, có khả năng hoàn thành tốt nhiệm vụ, phát huy được thế mạnh, ưu điểm của cán bộ nữ. Thực hiện nguyên tắc bình đẳng giữa nam và nữ về độ tuổi trong quy hoạch, đào tạo, đề bạt và bổ nhiệm.

6- Xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học nữ có trình độ cao, cán bộ lãnh đạo, quản lý nữ đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh sự nghiệp CNH-HĐH trong việc quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và bố trí sử dụng cán bộ nữ;

Xây dựng và thực hiện chương trình đào tạo cán bộ nữ theo từng lĩnh vực , gắn với quy hoạch. Cần bảo đảm tỷ lệ nữ tham gia gia các khóa đào tạo tại các trường lý luận chính trị, quản lý hành chính nhà nước từ 30% trở lên. Thực hiện cử tuyển đào tạo cán bộ nữ trong các dân tộc thiểu số, tôn giáo và trong các lĩnh vực có tỷ lệ cán bộ nữ quá thấp. Phổ cập tin học cho cán bộ nữ các cấp. Phấn đấu đến năm 2020, cán bộ nữ tham gia cấp ủy đảng các cấp đạt từ 25% trở lên; nữ đại biểu Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp từ 35% đến 40%. Các cơ quan, đơn vị có tỷ lệ nữ từ 30% trở lên, nhất thiết có cán bộ lãnh đạo chủ chốt là nữ. Cơ quan lãnh đạo cấp cao của Ðảng, Quốc hội, Nhà nước, Chính phủ có tỷ lệ nữ phù hợp với mục tiêu bình đẳng giới.

7- Chính sách phát triển đội ngũ cán bộ nữ: Xây dựng, sửa đổi, bổ sung và tổ chức thực hiện tốt các chính sách nhằm phát triển cán bộ nữ trong nghiên cứu khoa học, trong lãnh đạo, quản lý, đặc biệt quan tâm cán bộ nữ là trí thức; Công tác tạo nguồn cán bộ nữ cần được đặt trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực của quốc gia, ưu tiên tuyển dụng cán bộ nữ, lao động nữ có trình độ cao đẳng, đại học, trên đại học. Chăm lo bồi dưỡng, phát triển tài năng là nữ.

8- Xây dựng, hoàn thiện và thực hiện tốt hệ thống luật pháp, chính sách về bình đẳng giới, tạo điều kiện cho sự phát triển của phụ nữ: Triển khai thực hiện tốt Luật Bình đẳng giới; ban hành một số chính sách đặc thù nhằm tạo điều kiện cho sự phát triển của phụ nữ (Chính sách hỗ trợ phụ nữ trong đào tạo, bồi dưỡng, tiếp cận thông tin, ứng dụng tiến bộ khoa học-kỹ thuật, công nghệ mới, có các giải pháp cụ thể để tăng nhanh tỷ lệ phụ nữ được đào tạo trung cấp nghề, cao đẳng nghề, đại học, sau đại học).

9 - Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Ủy ban Quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam phấn đấu làm tốt vai trò nòng cốt tham mưu và thực hiện các giải pháp cần thiết để nâng cao nhận thức cho phụ nữ về bình đẳng giới, vượt khó vươn lên để không ngừng tiến bộ, đóng góp ngày càng nhiều cho gia đình, xã hội.

Những mục tiêu, quan điểm trên là cơ sở quan trọng, cần thiết, đề ra hệ thống đồng bộ những nhiệm vụ, giải pháp trong công tác trí thức của Đảng nhằm xây dựng, phát triển một đội ngũ trí thức Việt Nam nói chung, trong đó có nữ trí thức nói riêng hiện đại ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới. Việc quán triệt và triển khai thực hiện tốt những nhiệm vụ, giải pháp đó là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn xã hội và của chính những người trí thức. Đó cũng là một trong những điều kiện bảo đảm cho sự thành công của sự nghiệp CNH-HĐH đất nước, hội nhập quốc tế.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.Nghị quyết số 27 - NQ/TW Ban Chấp hành Trung ương khoá X "Về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước".

2. Hà Thị Khiết - Công tác cán bộ nữ trong tình hình mới- Tạp chí Cộng sản.

3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t 5, tr 156.

4. Trường Lưu - Xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức Việt Nam ngang tầm với yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới.

5. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, t 6, tr 432.

6. Phụ nữ Việt Nam bước vào thế kỷ XXI - NXB Chính trị Quốc gia -H. 2002).

7. Nghị quyết số 11-NQ/TW “Về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”.

8. Báo cáo đánh giá tình hình giới ở Việt Nam tháng 12-2006 của Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng Phát triển châu Á, Vụ Phát triển Vương quốc Anh, Cơ quan Phát triển quốc tế Ca-na-đa.

 VNU Media - Trang Tin tức Sự kiện
  In bài viết     Gửi cho bạn bè
  Từ khóa :
Thông tin liên quan
Trang: 1   | 2   | 3   | 4   | 5   | 6   | 7   | 8   | 9   | 10   | 11   | 12   | 13   | 14   | 15   | 16   | 17   | 18   | 19   | 20   | 21   | 22   | 23   | 24   | 25   | 26   | 27   | 28   | 29   | 30   | 31   | 32   | 33   | 34   | 35   | 36   | 37   | 38   | 39   | 40   | 41   | 42   | 43   | 44   | 45   | 46   | 47   | 48   | 49   | 50   | 51   | 52   | 53   | 54   | 55   | 56   | 57   | 58   | 59   | 60   | 61   | 62   | 63   | 64   | 65   | 66   | 67   | 68   | 69   | 70   | 71   | 72   | 73   | 74   | 75   | 76   | 77   | 78   | 79   | 80   | 81   | 82   | 83   | 84   | 85   | 86   | 87   | 88   | 89   | 90   | 91   | 92   | 93   | 94   | 95   | 96   | 97   | 98   | 99   | 100   | 101   | 102   | 103   | 104   | 105   | 106   | 107   | 108   | 109   | 110   | 111   | 112   | 113   | 114   | 115   | 116   | 117   | 118   | 119   | 120   | 121   | 122   | 123   | 124   | 125   | 126   | 127   | 128   | 129   | 130   | 131   | 132   | 133   | 134   | 135   | 136   | 137   | 138   | 139   | 140   | 141   | 142   | 143   | 144   | 145   | 146   | 147   | 148   | 149   | 150   | 151   | 152   | 153   | 154   | 155   | 156   | 157   | 158   | 159   | 160   | 161   | 162   | 163   | 164   | 165   | 166   | 167   | 168   | 169   | 170   | 171   | 172   | 173   | 174   | 175   | 176   | 177   | 178   | 179   | 180   | 181   | 182   | 183   | 184   | 185   | 186   | 187   | 188   | 189   | 190   | 191   | 192   | 193   | 194   | 195   | 196   | 197   | 198   | 199   | 200   | 201   | 202   | 203   | 204   | 205   | 206   | 207   | 208   | 209   | 210   | 211   | 212   | 213   | 214   | 215   | 216   | 217   | 218   | 219   | 220   | 221   | 222   | 223   | 224   | 225   | 226   | 227   | 228   | 229   | 230   | 231   | 232   | 233   | 234   | 235   | 236   | 237   | 238   | 239   | 240   | 241   | 242   | 243   | 244   | 245   | 246   | 247   | 248   | 249   | 250   | 251   | 252   | 253   | 254   | 255   | 256   | 257   | 258   | 259   | 260   | 261   | 262   | 263   | 264   | 265   | 266   | 267   | 268   | 269   | 270   | 271   | 272   | 273   | 274   | 275   | 276   | 277   | 278   | 279   | 280   | 281   | 282   | 283   | 284   | 285   | 286   | 287   | 288   | 289   | 290   | 291   | 292   | 293   | 294   | 295   | 296   | 297   | 298   | 299   | 300   | 301   | 302   | 303   | 304   | 305   | 306   | 307   | 308   | 309   | 310   | 311   | 312   | 313   | 314   | 315   | 316   | 317   | 318   | 319   | 320   | 321   | 322   | 323   | 324   | 325   | 326   | 327   | 328   | 329   | 330   | 331   | 332   | 333   | 334   | 335   | 336   | 337   | 338   | 339   | 340   | 341   | 342   | 343   | 344   | 345   | 346   | 347   | 348   | 349   | 350   | 351   | 352   | 353   | 354   | 355   | 356   | 357   | 358   | 359   | 360   | 361   | 362   | 363   | 364   | 365   | 366   | 367   | 368   | 369   | 370   | 371   | 372   | 373   | 374   | 375   | 376   | 377   | 378   | 379   | 380   | 381   | 382   | 383   | 384   | 385   | 386   | 387   | 388   | 389   | 390   | 391   | 392   | 393   | 394   | 395   | 396   | 397   | 398   | 399   | 400   | 401   | 402   | 403   | 404   | 405   | 406   | 407   | 408   | 409   | 410   | 411   | 412   | 413   | 414   | 415   | 416   | 417   | 418   | 419   | 420   | 421   | 422   | 423   | 424   | 425   | 426   | 427   | 428   | 429   | 430   | 431   | 432   | 433   | 434   | 435   | 436   | 437   | 438   | 439   | 440   | 441   | 442   | 443   | 444   | 445   | 446   | 447   | 448   | 449   | 450   | 451   | 452   | 453   | 454   | 455   | 456   | 457   | 458   | 459   | 460   | 461   | 462   | 463   | 464   | 465   | 466   | 467   | 468   | 469   | 470   | 471   | 472   | 473   | 474   | 475   | 476   | 477   | 478   | 479   | 480   | 481   | 482   | 483   | 484   | 485   | 486   | 487   | 488   | 489   | 490   | 491   | 492   | 493   | 494   | 495   | 496   | 497   | 498   | 499   | 500   | 501   | 502   | 503   | 504   | 505   | 506   | 507   | 508   | 509   | 510   | 511   | 512   | 513   | 514   | 515   | 516   | 517   | 518   | 519   | 520   | 521   | 522   | 523   | 524   | 525   | 526   | 527   | 528   | 529   | 530   | 531   | 532   | 533   | 534   | 535   | 536   | 537   | 538   | 539   | 540   | 541   | 542   | 543   | 544   | 545   | 546   | 547   | 548   | 549   | 550   | 551   | 552   | 553   | 554   | 555   | 556   | 557   | 558   | 559   | 560   | 561   | 562   | 563   | 564   | 565   | 566   | 567   | 568   | 569   | 570   | 571   | 572   | 573   | 574   | 575   | 576   | 577   | 578   | 579   | 580   | 581   | 582   | 583   | 584   | 585   | 586   | 587   | 588   | 589   | 590   | 591   | 592   | 593   | 594   | 595   | 596   | 597   | 598   | 599   | 600   | 601   | 602   | 603   | 604   | 605   | 606   | 607   | 608   | 609   | 610   | 611   | 612   | 613   | 614   | 615   | 616   | 617   | 618   | 619   | 620   | 621   | 622   | 623   | 624   | 625   | 626   | 627   | 628   | 629   | 630   | 631   | 632   | 633   | 634   | 635   | 636   | 637   | 638   | 639   | 640   | 641   | 642   | 643   | 644   | 645   | 646   | 647   | 648   | 649   | 650   | 651   | 652   | 653   | 654   | 655   | 656   | 657   | 658   | 659   | 660   | 661   | 662   | 663   | 664   | 665   | 666   | 667   | 668   | 669   | 670   | 671   |